"Phép màu Nhật Bản" Thời_kỳ_Chiêu_Hòa

Tăng trưởng kinh tế đáng chú ý của Nhật Bản trong những thập kỷ sau năm 1950 được gọi là " Phép màu Nhật Bản", khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh gấp ba lần so với các quốc gia lớn khác. Điều này đã đạt được trong khi gần như không cần vốn nước ngoài.[cần dẫn nguồn] Phép màu đã giảm xuống vào năm 1973 khi giá dầu tăng và sự bất ổn của thương mại quốc tế. Vào giữa những năm 1990, nền kinh tế bước vào kỷ nguyên trì trệ và tăng trưởng thấp cho đến ngày nay.[26]

Saburō kita (1914-93), một nhà kinh tế, đã nhận ra vào năm 1942 rằng cuộc chiến xem như đã chấm hết; ông đã chuẩn bị một kế hoạch cho sự phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Nhật Bản được xuất bản năm 1945 với tên gọi "Những định hướng cơ bản cho việc tái thiết nền kinh tế Nhật Bản". Ông trở thành bộ trưởng ngoại giao năm 1979 và nỗ lực hội nhập Nhật Bản về kinh tế và chính trị với nền kinh tế thế giới.[27]

Từ năm 1950 trở đi, Nhật Bản tự xây dựng lại chính trị và kinh tế. Sugita nhận thấy rằng "những năm 1950 là một thập kỷ mà Nhật Bản hình thành một hệ thống tư bản doanh nghiệp độc đáo, trong đó chính phủ, doanh nghiệp và lao động thực hiện hợp tác chặt chẽ và phức tạp".[28]

Sức mạnh kinh tế mới của Nhật Bản đã sớm mang lại sức ảnh hưởng kinh tế quan trọng trên thế giới. Học thuyết Yoshida và sự can thiệp kinh tế của chính phủ Nhật Bản đã thúc đẩy một phép màu kinh tế ngang tầm với những thống kê của Tây Đức. Chính phủ Nhật Bản nỗ lực thúc đẩy sự phát triển công nghiệp thông qua sự kết hợp giữa chủ nghĩa bảo hộ và mở rộng thương mại. Việc thành lập Bộ Thương mại và Công nghiệp Quốc tế (MITI) là công cụ phục hồi kinh tế sau chiến tranh của Nhật Bản. Đến năm 1954, hệ thống MITI đã có hiệu lực đầy đủ. Nó phối hợp hành động của ngành công nghiệp và chính phủ và thúc đẩy các thỏa thuận hợp tác, và tài trợ nghiên cứu để phát triển nền xuất khẩu đầy triển vọng cũng như nhập khẩu các mặt hàng thay thế (đặc biệt là thuốc nhuộm, sắt thép, và sođa khan). Người kế nhiệm Yoshida, Hayato Ikeda, bắt đầu thực hiện các chính sách kinh tế đã loại bỏ phần lớn luật chống độc quyền của Nhật Bản. Các công ty nước ngoài đã bị loại khỏi thị trường Nhật Bản và luật bảo hộ nghiêm ngặt đã được ban hành.[29]

Trong khi đó, Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Eisenhower đã coi Nhật Bản là mỏ neo kinh tế cho chính sách Chiến tranh lạnh của phương Tây ở châu Á. Nhật Bản hoàn toàn phi quân sự và không đóng góp cho sức mạnh quân sự, nhưng đã cung cấp sức mạnh kinh tế. Các lực lượng Hoa Kỳ và Liên Hợp Quốc đã sử dụng Nhật Bản làm căn cứ hậu cần tiền phương của họ trong Chiến tranh Triều Tiên (1950, 53), và các đơn đặt hàng tiếp tế tràn ngập Nhật Bản. Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ đã củng cố mối quan hệ chính trị và ngoại giao, để hai quốc gia sống sót qua cuộc khủng hoảng chính trị năm 1960 liên quan đến phe đối lập cánh tả đối với Hiệp ước An ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản. Cánh tả đã thất bại trong việc buộc phải loại bỏ các căn cứ quân sự lớn của Mỹ ở Nhật Bản, đặc biệt là ở Okinawa.[30] Shimizu lập luận rằng chính sách của Mỹ về việc tạo ra "người giàu (people of plenty)"là một thành công ở Nhật Bản và đạt được mục tiêu của nó là xoa dịu cuộc biểu tình chống tư bản ở cánh tả.[31]

Vào ngày 1 tháng 7 năm 1954, Đạo luật Lực lượng Phòng vệ (Đạo luật số 165 năm 1954) đã tổ chức lại Ủy ban An ninh Quốc gia thành Bộ Quốc phòng vào ngày 1 tháng 7 năm 1954. Sau đó, Lực lượng An ninh Quốc gia được tổ chức lại thành Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản (GSDF). Lực lượng bảo vệ ven biển được tổ chức lại thành Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản (JASDF) được thành lập như một chi nhánh mới của JSDF. Đây là lục quân, hải quân và không quân Nhật Bản thời hậu chiến.

Vào ngày 12 tháng 12 năm 1956, Nhật Bản đã tham gia Liên hợp quốc.

Năm 1957, Nhật Bản là quốc gia đầu tiên xây dựng các tuyến đường sắt chuyên dụng để tốc độ cao. Năm 1957, Odakyu Electric Railway đã giới thiệu tàu 3000 series SE Romancecar của mình, lập kỷ lục tốc độ thế giới là 145 km/h (90 dặm/giờ) cho một chuyến tàu khổ hẹp. Điều này sẽ dẫn đến việc thiết kế tàu Shinkansen đầu tiên. Kỷ lục này đã tạo động lực cho thiết kế 0 Series Shinkansen đầu tiên.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1964, dự án cải tạo đất lớn nhất của Nhật Bản cho đến nay đã được hoàn thành tại Hồ Hachirōgata. Ngôi làng Ōgata được thành lập. Công việc cải tạo đất bắt đầu tại hồ Hachirōgata vào tháng 4 năm 1957.

Vào ngày 10 tháng 10 năm 1964, Tokyo đã tổ chức Thế vận hội Mùa hè 1964. Cột mốc này đánh dấu lần đầu tiên Thế vận hội Olympic được tổ chức tại Châu Á.

Năm 1968, Nhật Bản đã vượt qua Tây Đức để trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Trong cùng năm đó, Quần đảo Ogasawara đã được Hoa Kỳ trao lại chủ quyền cho Nhật Bản. Công dân Nhật Bản được phép quay về.

Đến thập niên 1970, Nhật Bản đã trở lại là một cường quốc. Nó có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của nó rất hạn chế do các chính sách hòa bình và điều 9 của hiến pháp 1947. Điều này làm cho Nhật Bản trở thành một cường quốc không bình thường.[32]

Vào ngày 11 tháng 2 năm 1970, tên lửa Lambda 4S được phóng thành công và lần đầu tiên đưa vệ tinh Ohsumi của Nhật lên quỹ đạo.

Vào ngày 20 tháng 12 năm 1970, bạo loạn Koza là một cuộc biểu tình dữ dội và tự phát chống lại sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Okinawa.

Vào ngày 30 tháng 9 năm 1971, biểu tình và bạo loạn Zengakuren nổ ra ở Tokyo để phản đối các điều khoản trong việc Mỹ trả lại Okinawa cho Nhật Bản. Họ muốn loại bỏ hoàn toàn sự hiện diện của quân đội Mỹ.

Vào ngày 24 tháng 11 năm 1971, Thỏa thuận thu hồi Okinawa năm 1971 đã được phê chuẩn và Quận Okinawa được trả lại cho Nhật Bản.

Năm 1974, Thủ tướng Eisaku Satō là người châu Á đầu tiên nhận Giải Nobel Hòa bình.

Năm 1980, Nhật Bản trở thành nước sản xuất xe cơ giới lớn nhất trên thế giới với 11.042.884 xe cơ giới so với 8,009,841 xe của Hoa Kỳ.

Đầu những năm 1980 chứng kiến sự xuất hiện của anime Nhật Bản trong văn hóa Mỹ và phương Tây. Vào những năm 1990, phim hoạt hình Nhật Bản dần trở nên phổ biến ở Mỹ.

Năm 1985, ngành công nghiệp trò chơi điện tử tại nhà đã được hồi sinh nhờ thành công nổi tiếng của Nintendo Entertainment System. Thành công của NES đánh dấu sự thay đổi trong sự thống trị của ngành công nghiệp trò chơi điện tử từ Hoa Kỳ sang Nhật Bản với thế hệ máy chơi game thứ ba.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thời_kỳ_Chiêu_Hòa //books.google.com/books?id=p2QnPijAEmEC&pg=PA888 http://dispatch.opac.ddb.de/DB=4.1/PPN?PPN=1288427... //dx.doi.org/10.1017%2FS0022463400010651 //dx.doi.org/10.1353%2Frah.2002.0066 http://www.historians.org/perspectives/issues/2007... http://www.jcpa.org/jl/jl425.htm //www.jstor.org/stable/30031308 https://books.google.com/?id=-QuI6n_OVMYC&printsec... https://books.google.com/books?id=EzKBXxnkURkC&pg=... https://books.google.com/books?id=GwE8uBAUbpIC&pg=...